Bí ẩn về Trầm Hương mà không phải ai cũng biết!
Xưa nay, trầm hương luôn được xem là thứ sản vật tinh túy của trời. Trầm hương vốn là một loại gỗ rất quý hiếm, người xưa đã có câu “ngậm ngải tìm trầm” để nói lên sự gian khổ khi đi tìm loại gỗ trầm này. Tuy nhiên, không hẳn ai cũng biết huyền tích về thứ sản vật đặc biệt này của tạo hóa.
Truyền thuyết về Trầm Hương
Truyền thuyết kể rằng, nghề đi trầm có gốc gác từ vùng đất thánh Pô Nar Gar dưới chân núi Đại An (Diên Khánh, Khánh Hòa). Nữ thần Thiên Y A Na là tổ sư của nghề với giai thoại về sự xuất thân, hiển linh hết sức linh thiêng và huyền bí.
Cổ sử có chép, vùng đất Khánh Hòa từng là mảnh đất xứ trầm hương của vương quốc Chăm Pa một thời hùng mãnh. Đây là vùng đất phát tích nhiều câu chuyện thần bí về sự tích hiển thân các vị thần. Một trong số đó có nữ thần Thiên Y A Na phù hộ độ trì cho những phu trầm trên con đường hành lộ ngậm ngải tìm trầm hương. Nữ thần có tên là Thiên Y A Na theo tiếng Chăm là Pô Nar Gar, được sinh ra từ bột biển và ánh sáng ở ngoài biển khơi muôn trùng.
Thuở xưa ở núi Đại An có cặp vợ chồng già nhưng hiếm muộn con ngày ngày trồng dưa ở triền núi. Nhưng mỗi khi dưa chín được trái nào thì lại mất trái đó. Sau một thời gian dài, hai vợ chồng ông bắt hoài nghi và tìm cách bắt tên ăn trộm. Đúng như suy đoán của hai vợ chồng ông lão, tối hôm đó lúc đang canh dưa thì phát hiện một cô bé xinh đẹp đến hái trộm dưa trong vườn. Lúc này ông lão mới chạy đến bắt quả tang. Nhưng vì thấy cô bé còn nhỏ, xinh xắn nhưng lại không có cha mẹ, nên hai vợ chồng già đem về nhà nuôi và xem như con đẻ của mình.
Một hôm bỗng trời mưa to gió lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, cô gái lấy đá chất thành 3 hòn non bộ giả, rồi lấy hoa lá cắm lên trên đó cho vui. Thấy cô bé chơi trò không hợp với lứa tuổi nên ông lão rầy la. Trong lúc buồn, chợt thấy khúc kỳ nam theo dòng nước trôi đến, cô gái liền hóa thân vào khúc kỳ nam kia để cho sóng dạt ra khơi vào cập vào đất Trung Hoa. Hương thơm từ khúc kỳ nam tỏa ra ngào ngạt khiến cho nhiều người hiếu kì tìm đến xem. Lúc này, người dân địa phương tụm lại để mang khúc kỳ nam quý về nhà, nhưng dù có tập trung đông bao nhiêu cũng không nhấc lên nỗi. Khi hay tin từ người dân báo về cung đình, thái tử Bắc Hải tìm đến để xem thực hư thê nào, thì khúc kỳ nam bỗng nhiên nhẹ tênh trong tay của thái tử.
Trong một đêm trăng sáng như cảnh thần tiên, thái tử vô tình thấy một người con gái xinh đẹp tuyệt trần hiện ra từ khúc kỳ nam đặt trên giá. Thái tử vội chạy đến ôm chầm lấy, và sau đó xin với đức vua được cưới nàng làm vợ. sau một thời gian chúng sống trong cung điện lộng lẫy, một hôm nàng bỗng nhớ đến cha mẹ nuôi ở xứ Đại An nên đã hóa thân vào khúc kỳ nam để thả trôi trên biển tìm về với quê nhà.
Khi ngang qua vườn dưa cũ, mọi thứ vẫn còn đó nhưng hai vợ chồng ông lão đã qua đời từ lúc nào. Quá đau buồn trước sự ra đi của cha mẹ nuôi, Thiên Y A Na đã nhỏ lệ khóc thương, rồi sau đó xây đắp mộ tử tế cho hai người. Để trả ơn cho mãnh đất đã cưu mang nàng suốt thời gian qua, Thiên Y đã dùng tay hóa phép thành 4 cây trầm hương quý trấn ở 4 hướng đông tây nam bác ở mảnh đất Khánh Hòa, rồi sau đó cỡi hạt bay về trời mất tích.
Hiện nay, dấu tích về 4 cây trầm quý đó đến nay vẫn còn, nhưng được các “linh vật” canh gát cẩn thận nên không người nào có thể nhìn thấy được, nếu có nhìn thấy thì các cây này cũng “tự biến mất một thời gian rồi mới trở về vị trí cũ”. Đó là 1 cây ở Đổng Bò (Thành phố Nha Trang) trấn ở phía Nam; 1 cây ở Hòn Bà (thuộc huyện Ninh Hòa) trấn ở phía Bắc); 1 cây ở Hòn Dữ (huyện Duyên Khánh) và 1 cây ở Suối Ngô (huyện Duyên Khánh) trấn ở phía đông. Những cây trầm này được tương truyền rằng không còn lá, không còn giác, mưa nắng đều không thể làm hư mục được, và được xem như những báu vật của làng.
Dâng thần linh 13 mâm cỗ trước khi lên đường
Không chỉ những phu trầm mà tất cả những người đã bước chân vào nghề “địu” là phải biết đến những tín ngưỡng này. Bởi họ luôn tin rằng dù ở đâu đi chăng nữa thì cây trầm hương cũng là hóa thân của vị nữ thần cao quý Thiên Y A Na nên phải biết cung kính trước Người. Hơn nữa, con đường của những phu trầm thường thăm thẳm hiểm nguy vì phải sống trong những khu rừng âm u một thời gian dài. Những người phu trầm rất thận trọng tránh những sơ xuất mạo phạm đến thần thánh. Bởi họ tin rằng, thế giới tâm linh cũng tồn tại như con người đang sống, và mình tôn trọng họ thì họ mới giúp đỡ mình được.
Dân đi địu ngoài việc chọn bầu trưởng (người dẫn đầu nhóm phu trầm), phải chọn những người hợp tuổi để đi cùng nhóm với nhau. Một nhóm khoảng 7-15 người tùy vào từng đoàn. Bầu địu thường là những người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề phu trầm, ngoài ra còn phải biết cách điều hành nhóm và quan trọng nhất lá Bầu địu phải thuộc các nghi lễ cúng kính trước khi vào khai thác trầm, có khi mang theo tượng của Nữ thần Thiên Y A Na. Phu trầm được cử này sẽ phải làm lễ “thỉnh tượng” từ tay các thầy mo có tiếng tăm trong làng về nhà mình. Rồi sau đó sẽ lau chùi sạch sẽ, bỏ vào lồng kính một cách trang nghiêm như thờ cúng tổ tiên.
Dân đi trầm thường tâm niệm rằng các con vật trong rừng đều là hóa thân của thần thánh nên phu trầm rất kiêng gọi tên trực diện mà thường nói trại sang một số tên gọi khác. Ví như khi gọi tên con cọp thì gọi thành “ông Thầy”, rắn thì được gọi là “cô dài”, trăn thì gọi là “Ngựa Bà”, heo thì gọi là “Dủi”…
Tương tự như thế đối với những loại khác như gạo (Me), muối (Diêm), đi lạc đường (lục xính), bị chảy máu (chảy mắm). Bởi vì sợ Thánh nữ quở phạt nên đa số những phu trầm thường hạn chế ăn thịt, và kiêng kị nhất là đối thịt kì đà (vì sợ xui xẻo) và thịt trăn, rắn (vì đây là vật cửi của Thánh nữ). Sau khi đã đi đến được khu rừng cần tìm kiếm trầm, Bầu địu sẽ tìm một bãi đất trống trãi và sạch sẽ, sau đó bảo những người trong nhóm đặt những vật dụng cúng kính lên trên tấm thảm mỏng trải dưới nền đất. Sau khi đốt nhang xin phép với “thần rừng” thì mọi người bắt đầu dựng trại để nghỉ ngơi qua đêm.
Đến tờ mờ sáng hôm sau thì tất cả đều thức dậy để chuẩn bị làm lễ cúng kính trước khi vào rừng. Điều đáng chú ý đối với những người dân địu là lễ cúng của họ phải đầy đủ 13 mâm và chủ yếu được cúng bằng đồ chay. Mâm cỗ đem đến cúng thường là xôi trắng, cháo trắng, bánh kẹo, nhang đèn và đặt biệt là phải có vài cây nhang làm từ trầm. Sau đó, mọi người lựa chọn những hòn đá vuông vén để đặt những đồ cúng này lên trên và Bầu địu có trách nhiệm sắp xếp giấy bạc để chuẩn bị cúng. Lễ phải chia thành 13 mâm và mâm cúng dành cho “Bà cậu 2” (là tên gọi của dân địu dùng để chỉ thánh mẫu Thiên Y A Na) là lớn nhất, đặt ở giữa và ở vị trí cao nhất so với các mâm còn lại. Sau khi tắm rửa sạch sẽ thay áo quần tươm tất, Bầu trưởng sẽ tiến hành lễ cúng”, phải thuyết phúc mãi ông Quả mới chia sẽ cho chúng tôi điều này.
Nghi lễ này bắt đầu từ trước giải phóng, và những phu trầm thực thụ thì mới biết đến những nghi lễ này. Những phu trầm đời sau cũng thực hiện nghi lễ nhưng với cách thức đơn giản hơn. Nội dung của nghi lễ này là nhằm cầu mong cho Nữ thần trầm hương ban cho phước lành để dân địu may mắn trúng được loại trầm quý. Vì ai cũng biết nữ thần chính là Bà chúa cai quản trầm hương ở mọi cánh rừng, và chỉ có cách dâng lễ để mong bà ban “lộc” cho những phu trầm, cầu ban sự bình an cho mỗi người. Đó cũng chính là tâm thức ngàn đời của những người đi trầm nơi đây vẫn tin, ký thác vào đất mẹ như một sự kỳ vọng cho ngày mai tốt đẹp hơn.